Từ góc nhìn của thành viên IIUSA (Invest In the USA): Vụ kiện của nhà đầu tư EB-5 ông Zhang và Bộ di trú Mỹ (USCIS) có ý nghĩa gì cho các nhà đầu tư EB-5?
Ngày 30/11/2018, tòa án quận Columbia – Mỹ, đã ra phán quyết về vụ kiện giữa nhà đầu tư EB-5, ông Zhang, và Bộ di trú Mỹ (USCIS) về việc USCIS đã đánh giá khoản vay để đầu tư vào dự án EB-5 của ông Zhang như là khoản ghi nợ phải được đảm bảo bằng tài sản cá nhân của nhà đầu tư là tùy tiện và nhất thời. Hơn nữa, việc USCIS ra phán quyết từ chối đơn I-526 của ông Zhang không đúng theo pháp luật nhưng lại không có bất kỳ thông báo hay nhận xét nào, đã vi phạm đến luật thi hành (APA), và luật di trú và nhập tịch (INA). Tòa án quận đã cho phép tất cả nhà đầu tư EB-5 nhận được thư từ chối đơn I-526 từ USCIS trong trường hợp tương tự được phép phân xử lại và xem đây như là án lệ đáp trả lại những quyết định từ chối đó.
Vụ kiện của ông Zhang liên quan đến trường hợp của 2 nhà đầu tư EB-5 đã bị từ chối đơn I-526 do tiền đầu tư của họ có nguồn gốc là khoản vay không được đảm bảo bằng tài sản thế chấp. Những nguyên đơn trong vụ kiện của ông Zhang là một thách thức cho Sở di trú Mỹ trong việc từ chối đơn I-526 nếu xét trên phương diện chính sách được ban bố đầu tiên và định nghĩa lại bởi văn phòng USCIS vào ngày 22/04/2015, trong đó yêu cầu nếu các nhà đầu tư EB-5 sử dụng khoản vay để đầu tư, các nhà đầu tư này phải chứng minh rằng họ có đủ khả năng trả nợ khoản vay và khoản vay được đảm bảo bằng tài sản cá nhân của nhà đầu tư, đủ để trả khoản nợ đó. Diễn giải của USCIS dựa trên định nghĩa về “vốn đầu tư” trong qui định của chương trình EB-5, do đó họ khẳng định rằng tiền đầu tư từ khoản vay là đầu tư “khoản ghi nợ”, không phải đầu tư “tiền mặt” vào doanh nghiệp EB-5.
Tuy nhiên, tòa án quận trong vụ kiện của ông Zhang, kết luận rằng việc diễn giải của USCIS về khoản vay dùng như tiền mặt để đầu tư được xem là khoản ghi nợ là sự sai sót vì không nhất quán với định nghĩa ban đầu vốn có của “tiền mặt” và là sự tùy tiện và nhất thời vì không phù hợp với chủ đích của quốc hội khi thiết lập chương trình EB-5. Do đó, tòa án quận phân biệt rằng diễn giải của USCIS về việc tiền mặt từ khoản vay dùng để đầu tư vào một doanh nghiệp EB-5 được xem là khoản ghi nợ trong trường hợp nhà đầu tư đó đang trong tình trạng nợ với chính doanh nghiệp EB-5; “vốn đầu tư” theo qui định của chương trình EB-5 nhằm xác định tài sản thật sự đóng góp vào doanh nghiệp EB-5, không nhằm vào phương tiện/ hình thức mà tài sản đó có được.
Tòa án quận còn chỉ ra rằng USCIS đã vi phạm luật thi hành (APA) khi kết luận tiền đầu tư từ các khoản vay của những nguyên đơn trên là khoản ghi nợ vì như vậy, USCIS đã ép thêm qui định khác (nhà đầu tư thế chấp khoản vay cá nhân để đầu tư bằng tiền mặt) để điều chỉnh định nghĩa “vốn đầu tư” thay cho qui định được thiết lập ban đầu. Yêu cầu bổ sung này cần được thực hiện sau khi có thông báo và hướng dẫn áp dụng. Vì vậy, tòa án quận trong vụ kiện của ông Zhang đã kết luận USCIS đã vi phạm qui định về thông báo và hướng dẫn trong luật thi hành (APA) khi bổ sung thêm yêu cầu vào qui định đã ban hành.
Tóm lại, quyết định của tòa án quận Columbia đối với vụ kiện của ông Zhang không chỉ mang lại chiến thắng cho 2 nguyên đơn trong vụ kiện mà còn cho tất cả nhà đầu tư EB-5 có hồ sơ I-526 bị từ chối bởi USCIS chỉ vì vốn đầu tư vào dự án EB-5 của họ có nguồn gốc là các khoản vay không được bảo đảm (chính sách này đã được USCIS thực thi từ năm 2015). Những thay đổi đột ngột từ USCIS về chính sách hoặc diễn giải trong điều khoản yêu cầu thông thường khi thực thi chương trình EB-5 như trên không phải là trường hợp duy nhất. Vì vậy, quyết định của tòa án quận trong vụ kiện của ông Zhang cho thấy rằng tòa án liên bang có thể kiểm tra USCIS khi đơn vị này cố vượt quá phạm vi ngữ nghĩa trong các qui định của chương trình EB-5 và áp đặt thêm yêu cầu vào những qui định đã ban bố trước đó.