Bằng việc sử dụng kết hợp dữ liệu từ USCIS và Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ, phân tích này đã xác định được 6 xu hướng lớn nhất trong việc tăng vốn đầu tư EB-5 tại hai thị trường đang phát triển: Việt Nam và Hàn Quốc.
Những điểm chính của phân tích này bao gồm:
- Việt Nam và Hàn Quốc chiếm 280 triệu USD trong đầu tư vốn EB-5 trong năm 2016, dự báo trong năm 2017 sẽ là 365 triệu USD.
- Các đơn EB-5 của Việt Nam và Hàn Quốc đã tăng trưởng đáng kể trong 5 năm qua.
- Việt Nam và Hàn Quốc đang chiếm lĩnh thị phần đơn I-526 giữa các quốc gia khác ngoài Trung Quốc kể từ năm 2013.
- 80% đơn I-526 của các nhà đầu tư EB-5 Việt Nam và Hàn Quốc được chấp thuận.
- Phần lớn các nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam và Hàn Quốc đều cư trú tại nước họ trước khi nộp đơn xin thẻ xanh.
- Các dự án có trung tâm vùng chiếm 90% các khoản đầu tư EB-5 từ Việt Nam và Hàn Quốc.
1. Việt Nam và Hàn Quốc chiếm 280 triệu USD trong đầu tư vốn EB-5 trong năm 2016, dự báo trong năm 2017 sẽ là 365 triệu USD.
Dựa trên số liệu thống kê đơn I-526 do USCIS cung cấp, năm 2018, các nhà đầu tư từ Việt Nam chiếm 202 triệu USD vào dự án EB-5 trong khi đó các nhà đầu tư Hàn Quốc chiếm 78 triệu USD. Tổng cộng vốn đầu tư từ hai thị trường này là 280 triệu USD.
Ngoài ra, với thông tin mà IIUSA nhận được từ USCIS thì tổng vốn đầu tư EB-5 từ hai thị trường Việt Nam và Hàn Quốc có thể đạt 260 triệu USD và 105 triệu USD.
2. Các đơn EB-5 của Việt Nam và Hàn Quốc đã tăng trưởng đáng kể trong 5 năm qua.
Như hình minh họa, đã có sự tăng trưởng đáng kể của các nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam và Hàn Quốc kể từ năm 2011 dưa theo đơn I-526 đã được nộp.
Có khoảng 520 đơn I-526 được nộp bởi các nhà đầu tư Việt Nam trong năm 2017 và 210 đơn I-526 được nộp bởi các nhà đầu tư Hàn Quốc.
Mức tăng trưởng tương ứng là 498% và 106% trong năm năm qua.
3. Việt Nam và Hàn Quốc đang chiếm lĩnh thị phần đơn I-526 giữa các quốc gia khác ngoài Trung Quốc kể từ năm 2013.
Như đã trình bày trong hình 3, kể từ năm 2013, Việt Nam và Hàn Quốc đã dần dần tăng thi phần đơn I-526 của mình giữa các quốc gia khác ngoài Trung Quốc (OTC), từ 16% trong năm 2013 lên hơn 24% trong năm 2016.
Ngoài ra, theo IIUSA thì hai thị trường này có thể chiếm hơn 27% tổng số đơn I-526 tại các nước OTC trong năm 2017, tăng 3% so với năm 2016
4. 80% đơn I-526 của các nhà đầu tư EB-5 Việt Nam và Hàn Quốc được chấp thuận.
Theo dữ liệu được cung câp từ USCIS cho thấy rằng tỷ lệ phê duyệt các đơn I-526 của các nhà đầu tư EB-5 Việt Nam là 87% trong năm 2016, cao hơn 5% so với tỷ lệ chấp thuận trung bình trên toàn thế giới.
Ngoài ra, tỷ lệ chấp thuận đơn I-526 cho nhà đầu tư EB-5 từ Hàn Quốc là 82% trong năm 2016, cao hơn 6 trong 10 nước hàng đầu có số lượng đơn I-526 nhiều nhất trong năm (minh họa trong hình 4).
5. Phần lớn các nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam và Hàn Quốc đều cư trú tại nước họ trước khi nộp đơn xin thẻ xanh.
Điều quan trọng đối với các trung tâm vùng EB-5 là phải biết các nhà đầu tư tiềm năng đang cư trú ở đâu để có thể trình bày được cơ hội đầu tư EB-5 đến họ.
Theo dữ liệu từ bộ ngoại giao cho thấy thì 87% nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam nhận được thẻ xanh thông qua Lãnh Sự Quán, trong khi đó 76% các nhà đầu tư EB-5 từ Hàn Quốc cũng đã thông qua Lãnh Sự Quán để xin thị thực. Điều này cho thấy phần lớn các nhà đầu tư EB-5 từ hai thị trường này đều đang cư trú tại đất nước của mình trước khi họ đủ điều để định cư có điều kiện ở Mỹ.
6. Các dự án có trung tâm vùng chiếm 90% các khoản đầu tư EB-5 từ Việt Nam và Hàn Quốc.
Như đã trình bày trong hình 6, khoảng 95% nhà đầu tư EB-5 từ Việt Nam đã nhận được thị thực EB-5 trong năm 2017 bằng cách đầu tư vào các dự án có trung tâm vùng.
Tương tự, 93% thị thực EB-5 được cấp cho các nhà đầu tư Hàn Quốc trong năm 2017 có liên quan đến khoản đầu tư được thực hiện thông qua trung tâm vùng.
Điều này chứng minh rằng hầu hết các nhà đầu tư từ hai nước này đều thích có dự án mà có trung tâm vùng để đầu tư EB-5.